Chữ người tử tù đã thể hiện trọn vẹn quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân trước các h mạng tháng Tám. Cái đẹp đối lập vối thực tại tầm thường giả trá, cái đẹp của những con người phản ứng thực tại xã hội đương thời. Và Nguyễn Tuân cũng đã đem lại cho người đọc thú thưởng thức văn hoá rất đặc sắc trong nét chữ tài hoa.
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù - Bài số 1. Nhà văn Pauxtopki từng khẳng định: "Nhà văn là người dẫn đường đến xứ xở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp". Tuy nhiên mỗi nhà
Tóm tắt Chữ người tử tù ngắn nhất - mẫu 1. Nguyễn Tuân đã viết Truyện ngắn Những người tử tù với một cảnh "xưa nay chưa từng có". Huấn Cao là một người tử tù nhưng có tài viết chữ đẹp. Người khắp vùng tỉnh sơn đều đồn rằng: "Chữ ông Huấn đẹp
Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại.
Đề bài: Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Bài làm. Nội dung bài viết: I. Dàn ý. II. Bài văn mẫu. 1. Bài số 1. 2. Bài số 2. 3. Bài số 3. 4. Bài số 4. 5. Bài số 5. I. Dàn ý Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
. Là một sáng tác của Nguyễn Tuân, Chữ người tử tù viết về hoàn cảnh éo le và phẩm chất bất khuất trong tâm hồn người nhà nho. Tác giả đã khéo léo ngợi ca những cá nhân thiện lương giữa thời cuộc nhiễu nhương, hỗn loạn. Từ đó, ông bộc lộ quan điểm thẩm mỹ, tư duy đặc sắc của mình, để lại dấu ấn khó phai trong lòng độc giả. Theo vị văn sĩ, lối sống đẹp, thanh cao là thái độ đúng đắn để phản ứng với trật tự xã hội lúc bấy giờ. Bằng ngòi bút sáng tạo, Nguyễn Tuân đã mang đến một thiên truyện ngắn kiệt xuất cho nền văn học Việt Nam. Phong cách nghệ thuật hiện đại, mới mẻ của ông tôn vinh những giá trị truyền thống quý báu, bất chấp sự bào mòn từ thời gian. Bậc thầy ngôn từ hay người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp Nguyễn Tuân sinh năm 1910, quê ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục, nay thuộc quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nhưng ở thời điểm này, Hán học đã suy tàn trước sự thay đổi của thời đại. Sau khi trải qua hàng loạt biến cố, nhà văn bắt đầu sự nghiệp viết lách từ đầu những năm 1935. Sự từng trải và bút lực dồi dào, độc đáo đã giúp Nguyễn Tuân trở nên nổi tiếng qua hai tác phẩm Vang bóng một thời, Một chuyến đi. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ, đại văn hào quyết định tham gia kháng chiến và trở thành cây bút sáng giá trong nền văn học mới. Đất nước lập lại hòa bình, người nghệ sĩ bước vào hành trình khám phá Tổ quốc suốt nhiều năm. Nhắc đến Nguyễn Tuân, giới chuyên môn và công chúng hay ưu ái gọi ông là “Nhà luyện đan ngôn ngữ”, “Tay phù thuỷ của ngôn từ”. Nguyễn Tuân có những biệt danh đó là vì ông sở hữu biệt tài vận dụng, sáng tạo ngôn từ vô cùng phong phú. Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp Trong quan niệm nhà văn, ông cho rằng “Văn phải cho ra văn”, “Văn chương trước hết là nghệ thuật, sau đó mới là cuộc đời”. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân trau chuốt, tỉ mỉ từng từ, từng chữ để tạo ra những trang văn xuôi đầy nhạc điệu, đầy chất thơ. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chuyên sáng tác truyện ngắn, bút ký, lấy đề tài là vẻ đẹp vang bóng một thời, chủ nghĩa xê dịch và đời sống truỵ lạc. Nhà văn cũng ngợi ca thiên nhiên, văn hoá, con người Việt Nam bằng thái độ trân trọng hết mực. Sau Cách mạng, nhà văn tập trung vào chủ đề Tổ quốc, nhân dân Việt Nam trong kháng chiến, trong xây dựng đất nước. Ông khắc hoạ hình ảnh những người lao động bình thường với phẩm chất cao cả. Tuy có sự thay đổi trong tư duy, phong cách sáng tác song Nguyễn Tuân luôn trung thành với niềm đam mê xê dịch. Ngoài ra, ông còn có tài vận dụng kiến thức uyên bác để hoàn thiện tác phẩm văn học của mình. Sự nghiệp “bậc thầy ngôn từ” đồ sộ là thế nhưng ông thành công nhất với tuỳ bút. Thể loại này phù hợp với phong thái tự do, phóng khoáng của Nguyễn Tuân và những nho sĩ bấy giờ. Đôi nét về tác phẩm Chữ người tử tù và nhan đề đặc biệt Chữ người tử tù được sáng tác trước Cách mạng tháng Tám, lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng. Tác phẩm xuất hiện trên tạp chí Tao Đàn năm 1939, sau đó in trong tập truyện Vang bóng một thời 1940 và đổi tên thành Chữ người tử tù. Vang bóng một thời bao gồm mười một truyện ngắn, đây là kết tinh của tư duy, tài năng và sự hiểu biết mà nhà văn đã tích lũy sau nhiều năm theo đuổi nghiệp viết. Văn phẩm thể hiện sự trân trọng đan cài với nỗi nuối tiếc mà Nguyễn Tuân dành cho những nếp sinh hoạt, nghệ thuật xưa cũ. Đồng thời, ông cũng bày tỏ lòng yêu mến và tán dương bậc nho sĩ tài hoa, bất đắc chí giữa buổi “Tây Tàu nhố nhăng”. Cái đẹp thời đại ấy đã qua, đã suy tàn trước “sự xâm lấn” của nét hiện đại mà người dân học hỏi ở phương Tây. Thế nhưng, tiếng vang từ nền văn hoá đó vẫn vọng đến thời nay, in bóng trong tâm trí nhà văn. Chữ người tử tù viết về những người bất lực nhưng không a dua chạy theo danh lợi, họ giữ gìn thiện tâm tựa dòng nước trong veo. Nhân vật đó chính là Huấn Cao, một tử tù mà lính canh gắn liền với hai từ “nguy hiểm” và “ngạo ngược”. Nhan đề Chữ người tử tù ngắn gọn mà bao hàm toàn bộ ý nghĩa tác phẩm Chỉ với tên tác phẩm, Nguyễn Tuân đã khơi gợi lên sự tò mò của độc giả. Nhan đề đặc sắc ở chỗ nó thể hiện tình huống éo le mà Huấn Cao gặp phải nhưng cũng cho thấy trí tuệ của người đàn ông mang danh tử tù chính trị. “Chữ” tượng trưng cho sự tài hoa, tri thức lại sóng đôi cùng “người tử tù”, kẻ bị coi là thành phần bất hảo và không thể cải tạo. Tuy nhiên, “tử tù” này không phải là người tầm thường mà là một bậc nho sĩ khí phách, có tài viết chữ đẹp mỹ miều. Như vậy, chỉ trong bốn từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã gửi gắm trọn vẹn thông điệp tác phẩm thông qua tựa đề Chữ người tử tù. Tài năng chắt lọc ngôn từ của ông được bộc lộ rõ ràng, thu hút niềm yêu thích từ muôn vàn độc giả. Tình huống gặp gỡ éo le giữa người tử tù và viên quan coi ngục Đối với tiểu thuyết và truyện ngắn, tình huống truyện là thủ pháp nghệ thuật then chốt, tạo tính hấp dẫn cho câu chuyện. Đơn cử như hoàn cảnh, diễn biến chứa đựng mâu thuẫn hoặc thể hiện mối quan hệ giữa các nhân vật. Những sự kiện đó góp phần khắc họa tính cách, tâm lý nhân vật, thể hiện chủ đề và tư tưởng tác giả muốn truyền tải. Trong Chữ người tử tù, sự việc chính mở ra toàn bộ tình tiết sau đó là cuộc gặp gỡ giữa tử tù Huấn Cao và viên quan coi ngục. Huấn Cao bị cáo buộc là “người đứng đầu bọn phản nghịch”, trong khi viên quan coi ngục có chức tước và quyền trông giữ phạm nhân. Sau khi nhận được công văn yêu cầu đề lao nhận sáu tên tù án chém, quản ngục đã để ý đến cái tên Huấn Cao. Cuộc hội thoại mở đầu với thầy thơ lại cho thấy viên quan đã nghe danh Huấn Cao từ lâu. Y dường như không thể tin rằng bản thân sẽ gặp người sở hữu “cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” ở chốn lao tù nhơ nhớp này. “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?” Đây là tình huống vừa hợp lý lại vừa éo le, thể hiện ở khía cạnh thân phận nhân vật, không gian lẫn thời gian. Hợp lý bởi quản ngục là kẻ trông coi tử tù, éo le vì ông ta vốn mến mộ tài năng Huấn Cao, vậy mà phải gặp vị nhân tài nổi tiếng trong đề lao. Trên hết, màn hội ngộ của hai người không kéo dài được lâu vì một thời gian ngắn nữa thôi là Huấn Cao sẽ bị giải ra pháp trường. Ngay cả thời điểm gặp gỡ cũng nhạy cảm vì quản ngục và tử tù vốn không nên thân thiết, gần gũi như bạn bè. Nguyễn Tuân đã không phụ lòng độc giả khi tạo ra hoàn cảnh độc đáo, làm tiền đề cho nhân vật bộc lộ cá tính, giúp tác phẩm thêm phần hấp dẫn và thể hiện tư tưởng chủ đạo của nhà văn. Nét đẹp anh dũng và đầy trí tuệ của Huấn Cao Trong văn học, nhân vật là “linh hồn” tác phẩm, có khả năng khắc hoạ xã hội đương thời hay gián tiếp thể hiện tư duy của tác giả. Huấn Cao cũng không phải là ngoại lệ, ông mang trong mình phẩm chất nhà nho đầy anh dũng. Thông qua Huấn Cao, độc giả thấu hiểu quan điểm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân và sự ngưỡng mộ mà ông dành cho những người như Huấn Cao. Thân phận là tội phạm nhưng ông lại không hề hại nước, hại dân. Nét đẹp của Huấn Cao trong Chữ người tử tù được miêu tả bằng nhiều thủ pháp độc đáo Thay vào đó, Huấn Cao là đại diện cho tầng lớp tài hoa mà phải chịu thua trước sự thay đổi tiêu cực của xã hội. Nguyễn Tuân hun đúc cho ông nét đẹp mà một người tri thức vốn có, nhân vật này cũng là tấm gương phản chiếu “cái tôi” của nhà văn. Có nhiều ý kiến cho rằng Huấn Cao được xây dựng từ Cao Bá Quát, vị danh nhân hiên ngang và dũng cảm. Trong Chữ người tử tù, Huấn Cao được miêu tả trên ba phương diện, một nghệ sĩ tài hoa, một vị anh hùng khí phách, một người có thiên lương trong sáng. Một nghệ sĩ tài hoa với khả năng viết thư pháp đẹp đẽ Với tội danh tử tù, Huấn Cao bước vào đề lao với bao điều tiếng. Thế nhưng, bản chất của ông lại là một chính nhân quân tử, không chỉ có chí lớn mà còn sở hữu tài năng viết chữ đẹp. Điều này được thể qua những lời khen, lời đồn về ông mà viên quan coi ngục và thầy thơ lại có dịp nghe người dân “nhắc nhỏm”. Người tỉnh Sơn đề cập đến Huấn Cao như một bậc thầy, một nghệ sĩ tài hoa, tiếng lành đồn xa đến mức ngay cả chốn lao ngục tối tăm, bốn bề kín kẽ cũng biết đến ông. “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?” “Không, tôi nghe tên quen quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn, thì tôi cũng hỏi thế thôi.” Bên cạnh việc viết chữ đẹp, Huấn Cao còn viết chữ nhanh, một điều không phải ai cũng có thể làm. Như vậy, tài năng của ông được miêu tả gián tiếp thông qua đoạn đối thoại giữa quản ngục và thầy thơ lại, giúp độc giả mường tượng hình ảnh Huấn Cao bằng sự tài hoa kể cả khi nhân vật này chưa chính thức xuất hiện. Ở nơi ảm đạm như ngục giam, cái tài của Huấn Cao vẫn được tán thưởng. Thầy thơ lại bộc lộ sự tiếc nuối khi nghĩ đến việc Huấn Cao sắp bị hành hình, chi tiết này cho thấy Huấn Cao có tài đến mức ngay cả thầy bát cũng không muốn ông lìa trần. “Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc.” Ngoài ra, viên quan coi ngục quyết định “biệt đãi” ông, bất chấp những nguy hiểm mà bản thân có thể đối mặt. Vốn là quản ngục, người đối địch với kẻ tử tù, vậy mà tài năng của Huấn Cao nổi bật đến mức y sẵn sàng đối đãi hết mình với ông. Xuyên suốt tác phẩm, Nguyễn Tuân nhiều lần tô điểm khả năng viết thư pháp đẹp đẽ mà Huấn Cao sở hữu thông qua góc nhìn quản ngục. Sự biệt đãi ấy còn đến từ mong mỏi ông sẽ “dịu bớt tính nết”, bằng lòng viết chữ cho viên quan này. Viên quan coi ngục đã chuẩn bị sẵn “chục vuông lụa trắng” chỉ để chờ Huấn Cao. Hành động này thể hiện sự tôn trọng của quản ngục, đồng thời nhấn mạnh nét chữ của ông đẹp đến mức xứng đáng xuất hiện trên những vật liệu cao quý, đắt đỏ. Từ xưa đến nay, dân gian Việt Nam đã lưu truyền câu tục ngữ “nét chữ, nết người”. Chữ Huấn Cao không mềm mại, thanh mảnh mà vuông vức, toát ra sự chính trực như chính con người ông. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm.” Thế nhưng, dù viết chữ đẹp, nổi tiếng là vậy, Huấn Cao lại “ít chịu cho chữ”. Ông chỉ dành tặng vài câu đối cho những người mà mình xem như tri kỉ, tuyệt đối không vụ lợi bằng tài năng. Chính vì thế, quản ngục nghĩ rằng “có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”, cụm từ “vật báu” được so sánh ngang hàng với “chữ ông Huấn”, khẳng định tài viết chữ độc đáo của Huấn Cao. Tài năng ông sở hữu giống như một huyền thoại mà người dân tỉnh Sơn thay nhau truyền miệng, tỏ vẻ kính phục. Việc ai cũng biết đến Huấn Cao nhưng không phải ai cũng có cơ may được ông tặng chữ càng tô đậm hình tượng vị nghệ sĩ tài hoa. Một vị anh hùng thất thế vẫn ung dung tự tại Ngoài tài viết chữ nhanh, chữ đẹp, Huấn Cao còn là một vị anh hùng khí phách, dẫu thất thế vẫn bình thản trước thế sự. Sở dĩ lính coi ngục đánh giá ông là người “ngạo ngược”, “nguy hiểm” vì Huấn Cao không chỉ giỏi văn mà còn thạo võ. Trong lúc trò chuyện với nhau, viên quan coi ngục và thầy thơ lại đã nhắc đến tài bẻ khoá, vượt ngục của Huấn Cao. Mặc dù bị bao vây bởi nhiều lính canh, kìm kẹp với gông, xiềng xích song ông đã khiến bao đề lao vất vả vì năng khiếu phi thường. Không phải tự nhiên mà Nguyễn Tuân xây dựng hình ảnh người tù phản nghịch như Huấn Cao. Ông là đại diện tiêu biểu cho tập thể người dân chán ghét, muốn lật đổ trật tự xã hội cũ. Kẻ nuôi mộng lớn rất nhiều, người thật sự anh dũng, sẵn sàng đứng dậy khởi nghĩa lại khan hiếm. Huấn Cao là một trong những anh hùng chấp nhận hy sinh sự an toàn lẫn danh dự cá nhân để chống lại triều đình phong kiến. Trong đoàn phạm nhân gồm sáu người, Huấn Cao đứng đầu gông, lãnh đạo năm bạn đồng chí còn lại. Chiếc gông cũ kỹ dài khoảng “tám thước” và “nặng đến bảy, tám tạ”, đè lên “sáu bộ vai gầy”, ấy vậy mà Huấn Cao không mảy may sợ hãi. Thay vào đó, ông thản nhiên ngẩng cao đầu, bộc lộ khí chất của một thủ lĩnh ngoan cường, dũng cảm. Khi bị rệp cắn đỏ cả cổ, Huấn Cao đã đề nghị sáu người cùng dỗ gông. Trước cảnh sáu tử tù quỳ rạp xuống đất, một tên lính áp giải đã buông lời chế nhạo, hăm doạ “phết cho mấy hèo” nếu họ không đứng dậy. Nghe những lời nói đó, Huấn Cao chỉ “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng” rồi khom mình thúc mạnh đầu thang gông lên thềm đá. Qua chi tiết này, độc giả cảm nhận được chí khí ngạo nghễ, ung dung mà Huấn Cao dành cho lính ngục. Ông không sợ, không phục tùng trước họ bởi lẽ ông vốn là một bậc cao nhân. Nguyễn Tuân khắc hoạ chân dung Huấn Cao vừa tài năng, vừa có phẩm chất người lãnh đạo mạnh mẽ. Anh hùng chí lớn thì mấy khi chấp kẻ tiểu nhân, Huấn Cao thậm chí chẳng buồn đôi co với tên lính tỏ vẻ thị uy. Ngược lại, đề lao nói chung và lính áp giải nói riêng mới là người e ngại Huấn Cao. Dẫu đã thất thế, sắp đến ngày bị giải ra pháp trường, họ vẫn cẩn thận áp dụng loại gông nặng nề, coi ông là tử tù nguy hiểm và cần phải chú ý kỹ càng. “Bẩm thầy, tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.” Trong những ngày tháng cuối của cuộc đời, Huấn Cao được viên quan coi ngục biệt đãi hết mực. Ông vẫn “thản nhiên nhận rượu thịt” song không để tâm đến viên quan coi ngục. Huấn Cao chỉ coi đây là việc mà mình vẫn hay làm “trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Khi được viên quan thăm hỏi một cách “khép nép”, Huấn Cao hờ hững đáp trả với thái độ “cố ý làm ra khinh bạc đến điều”. “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Những chi tiết này cho thấy Huấn Cao coi trại giam tựa như giang sơn của mình, chẳng những không ngao ngán cường quyền mà còn khinh thường sự đối đãi đặc biệt đến từ quản ngục. Huấn Cao biết rằng hành động này có thể khiến ông bị báo thù, bị đánh đập nhưng không hề nao núng. Bởi lẽ, ngay cả cái chết còn không thể làm con người ấy sợ thì những thủ đoạn vặt vãnh đó gần như chẳng là gì. “Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này.” Tuy nhiên, quản ngục không hành hạ Huấn Cao như ông tưởng vì y biết rằng người ấy đã “chọc trời quấy nước”. Trong mắt Huấn Cao, ông còn không để ý đến bề trên, huống chi là nể sợ “một kẻ tiểu lại” như viên quan coi ngục. Khi đứng trước lằn ranh sinh tử, người ta thường sợ sệt và nuối tiếc trần thế. Huấn Cao thì không như vậy, ông vẫn ung dung, bình thản như thể cái chết là thứ rất nhẹ nhàng. Điều duy nhất mà Huấn Cao trăn trở là “chí lớn không thành”, thể hiện bản chất người anh hùng chỉ lo chuyện đại sự, không màng đến sống còn. Với ông, giấc mộng lớn lao gần như đã tan biến nhưng khí thế thì vẫn trường tồn. Trong cảnh cho chữ vào cuối tác phẩm, Nguyễn Tuân đã tô đậm chân dung vị anh hùng Huấn Cao. Giữa không gian chật hẹp, ẩm ướt, xung quanh thì bừa bãi phân chuột lẫn phân gián, Huấn Cao hiện lên tựa “bậc thánh nhân”. Dẫu “cổ đeo gông”, “chân vướng xiềng”, ông vẫn ngồi dậm tô nét chữ “vuông tươi tắn”, “nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Trước mắt Huấn Cao là hình ảnh viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run”, hai kẻ giữ tù lại hạ mình dưới người tử tù, thể hiện sự khí phách, uy nghiêm tột bậc của ông. Nguyễn Tuân tạo nên nhân vật “văn võ song toàn” như Huấn Cao với mong muốn ngợi ca những người có trí, lại có chí. Giữa xã hội loạn lạc, ông tựa một “ngôi sao chính vị” nổi bật, chỉ tiếc là sắp phải từ giã cõi đời. Một con người có thiên lương trong sáng giữa chốn lao tù Để hoàn thành bức chân dung Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã điểm thêm thiên lương trong sáng cho bậc anh tài. Giữa chốn lao tù ngột ngạt, đầy rẫy chết chóc, ông vẫn không hề bị vấy bẩn. Trái lại, Huấn Cao thể hiện phẩm chất tốt đẹp, đáng quý mà trời ban cho thông qua quan niệm về chữ và việc tặng chữ. Đối với ông, con chữ là báu vật quý giá, không phải thứ dễ dàng đem trao cho bất cứ ai. “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ” Câu nói của Huấn Cao khẳng định ông là người chân chất, có nhận thức đáng quý về chữ. Suốt cả đời mình, Huấn Cao chỉ “mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho ba người bạn tri kỷ. Sau khi thấu hiểu tấm lòng viên quan coi ngục, ông mới đồng ý viết chữ tặng y. Sự chấp thuận này vừa thể hiện động cơ tặng chữ trong sáng, vừa cho thấy tấm lòng mong muốn trả nghĩa và thái độ xúc động của Huấn Cao. “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Vào đêm cho chữ, Huấn Cao “thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục” rồi kiên nhẫn khuyên nhủ y. Huấn Cao không chỉ giữ gìn thiên lương của mình mà còn khơi gợi thiên lương nơi quản ngục, hướng y đến con đường chính đạo. Ở Huấn Cao, độc giả nhìn thấy hình tượng một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng uy nghiêm và một con người thấu tình đạt lý. Ông là nhân vật lý tưởng được Nguyễn Tuân xây dựng nhằm mục đích thể hiện tinh thần yêu nước. Thông qua Huấn Cao, người đọc nhận biết quan điểm thẩm mỹ của nhà văn về nghệ thuật, về con người, đặc biệt là về cái đẹp chân chính. Tâm hồn nghệ sĩ và nét đẹp dũng cảm của viên quan coi ngục Song song với Huấn Cao, viên quan coi ngục cũng là một nhân vật được Nguyễn Tuân dụng tâm xây dựng. Nếu một người đại diện cho phía nghệ sĩ, anh hùng toàn tài thì người kia lại là ví dụ tiêu biểu cho những kẻ thiện lương lầm đường lạc lối. Y say mê cái đẹp, quý trọng người tài, có bản chất hiền lành và dũng cảm với mong ước của mình. Tuy mang chức phận quản ngục, lại sống trong chốn đề lao phức tạp bao năm, viên quan vẫn không hề bị “biến chất”. Nhân vật quản ngục cũng nổi bật với nét đẹp riêng Bằng ngòi bút sáng tạo, Nguyễn Tuân đã “thổi hồn” cho nhân vật này khi quản ngục vừa soi chiếu Huấn Cao, vừa là nhân tố quan trọng thể hiện quan điểm của nhà văn về thiên lương con người. Một người biết trân trọng cái tài và cái đẹp Nếu như Huấn Cao được Nguyễn Tuân so sánh với “ngôi sao chính vị” trên bầu trời thì viên quan coi ngục là “một thanh âm trong trẻo”. Tại ngục giam u ám, đầy thị phi, lừa lọc, y lại hành xử dịu dàng, biết quý người ngay, lẽ phải. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.” Phép so sánh độc đáo của “bậc thầy ngôn từ” đã khái quát toàn bộ hoàn cảnh và tính cách quản ngục. Y vốn sống ở nơi dễ đẩy con người vào tà đạo, nhơ nhớp nhưng lại yêu thích cái tài, cái đẹp. Từ lúc mới nhận được công văn, viên quan đã chú ý đến cái tên Huấn Cao. Thay vì nhấn mạnh vào sự kiêu ngạo, nguy hiểm thì y lại đề cập đến những lời đồn xoay quanh tài viết chữ nhanh, chữ đẹp mà ông sở hữu. Chi tiết này cho thấy y vốn là người quan tâm, chú ý đến sự tài năng và thẩm mỹ. Quản ngục không bận tâm đến hành động vượt ngục của Huấn Cao mà đánh giá nhân cách người tử tù thông qua sự tài hoa, khí phách. Trong suy nghĩ viên quan, y cho rằng người biết quý trọng người có tài thì không hẳn là người xấu. Quan điểm sống này thể hiện bản chất thuần khiết và tâm hồn nghệ sĩ, say mê cái đẹp chân, thiện, mỹ. Sở nguyện đời quản ngục là “được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Đó là một điều ước cao quý, thiêng liêng, bộc lộ niềm đam mê với cái tài, cái đẹp. Lúc mới nhận tù, y nhìn họ bằng “cặp mắt hiền lành” và lòng kiêng nể hiện lên rõ rệt dẫu đã cố giữ kín đáo. Vào những ngày Huấn Cao bị biệt giam, vì quý mến ông mà viên quan coi ngục đặc biệt đối xử tử tế với ông lẫn năm tử tù còn lại. Quản ngục sai phái người thơ lại mang rượu thịt đến cho Huấn Cao, bất chấp sự khinh bạc mà ông thể hiện. Do kính trọng Huấn Cao, quản ngục luôn ăn nói nhỏ nhẹ, khiêm nhường, cho thấy sự trân trọng đối với hiền tài. “Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất.” “Xin lĩnh ý.” Đáng lẽ, quản ngục không cần phải khúm núm trước Huấn Cao bởi vì y mới là người có chức phận. Tuy nhiên, quản ngục lại nghiêm túc lắng nghe lời Huấn Cao và không dám làm trái ý ông. Tất cả những suy nghĩ, hành động của viên quan coi ngục đều cho thấy y biết thưởng thức cái đẹp, khâm phục nhân tài và vị nể khí phách Huấn Cao. Như vậy, Nguyễn Tuân tạo nên nhân vật quản ngục không phải để đối đầu với kẻ tử tù mà để tôn vinh nét đẹp nho nhã, bất khuất của người xưa. Một người dũng cảm và sẵn sàng hướng thiện Sống trong đề lao đã lâu, tấm lòng viên quan coi ngục ấy vẫn tồn tại sự trong sáng và lương thiện. Khi màn đêm buông xuống, chỉ còn lại bản thân bên chiếc nến mờ nhạt, y mới để lộ bản chất thật của mình. “Bộ mặt tư lự” biến mất hẳn, Nguyễn Tuân đã dùng hình ảnh “mặt nước ao xuân, bình lặng, kín đáo và êm nhẹ” để miêu tả y. Cởi bỏ trách nhiệm trên vai và những điều dơ bẩn nơi ngục tù, viên quan trở lại với bản thân, một con người hiền hòa, điềm đạm. Thẳm sâu trong tâm hồn, y luôn day dứt về việc chọn nhầm nghề. Suy nghĩ của viên quan về thầy bát cho thấy y không mấy hài lòng với công việc hiện tại mà cho rằng mình đã “lầm đường lạc lối”. “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đấy. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi.” Nguyễn Tuân hình dung quản ngục là “cái thuần khiết” bị đày ải vào “giữa một đống cặn bã”. Quyền lực là vậy, y vẫn không lợi dụng chức phận để hành hạ ai mà chỉ làm theo nhiệm vụ triều đình giao phó. Lúc gặp Huấn Cao, tuy rất muốn biệt đãi ông song viên quan sợ bị cấp dưới trình lên bề trên. Y “băn khoăn ngồi bóp thái dương”, phải suy tính một hồi rồi mới dám đưa ra quyết định. “Để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu.” Mặc dù mâu thuẫn giữa nghĩa vụ với mong muốn cá nhân, quản ngục đã chọn nghe theo trái tim. Biệt đãi Huấn Cao là việc làm không hề đơn giản, viên quan ấy vô cùng dũng cảm khi không màng đến sự an toàn mà đối xử tử tế với vị anh hùng ấy. Trong thời gian tiếp cận Huấn Cao, quản ngục chưa bao giờ tỏ vẻ trịch thượng. Tâm tính hiền lành, vị tha được y bộc lộ rõ qua những khoảnh khắc trò chuyện, tương tác với ông. Vào thời điểm Huấn Cao tặng chữ, viên quan khúm núm nhìn người mình ái mộ. Y được người tử tù ấy khuyên hướng thiện để làm lại cuộc đời, bởi ở chốn này “khó giữ thiên lương cho lành vững”. Quản ngục không những không nổi giận hay phản bác mà còn xúc động, nghẹn ngào. Y vừa khóc vừa vái Huấn Cao, chắp tay nói rằng “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Viên quan tự nhận mình “mê muội” nên khi đứng trước người nghệ sĩ tài hoa, khí phách này mới hiểu con đường mình cần đi. Câu nói đó thể hiện y có tinh thần hướng thiện, sẵn sàng từ bỏ danh phận, tiền bạc để tìm về chốn thanh bình. Quản ngục vừa là kẻ trông tù nhân, vừa là “tù nhân” trong chính tâm trí bản thân. Sự đấu tranh ấy cuối cùng đã biến mất sau khi y gặp quý nhân đời mình là Huấn Cao. Giá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chữ người tử tù Chữ người tử tù không chỉ chứa đựng nội dung độc đáo mà còn sở hữu giá trị nghệ thuật đặc sắc. Nhà văn Nguyễn Tuân đã vận dụng nhiều thủ pháp một cách nhuần nhuyễn để thổi hồn cho tác phẩm đi sâu vào lòng người đọc. Giá trị nghệ thuật trong Chữ người tử tù là nhân tố quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm Khắc hoạ chân dung Huấn Cao và viên quan coi ngục, nhà văn sử dụng bút pháp lãng mạn. Ông miêu tả tử tù với nét đẹp toàn thiện, toàn mỹ, Huấn Cao vừa có tài viết chữ, vừa thạo võ và rất hiên ngang. Trong khi đó, quản ngục là “nốt nhạc” thanh khiết nơi đề lao đầy cạm bẫy và lừa lọc. Nét đẹp của y không toàn diện nhưng vẫn sáng ngời với bản chất lương thiện, hiền lành. Bên cạnh đó, phép đối lập cũng được Nguyễn Tuân ứng dụng để xây dựng nhân vật và miêu tả cảnh vật, đặc biệt là trong cảnh cho chữ. Nhà văn miêu tả Huấn Cao như nhân tài còn quản ngục tựa người mến mộ. Chức phận của hai người hoàn toàn trái ngược khi kẻ quản lý tù nhân, người sắp bị hành hình. Ngoài ra, nét đối lập còn thể hiện trong chính tâm tính viên quan coi ngục khi y vừa muốn hoàn thành trách nhiệm, vừa muốn giữ gìn thiên lương. Ở phân đoạn cho chữ, Nguyễn Tuân nhấn mạnh sự đối nghịch giữa bóng tối của màn đêm và ánh sáng đỏ rực của bó đuốc. Không gian đầy bẩn thỉu tượng trưng cho cái xấu xa và hình ảnh tấm lụa bạc, Huấn Cao đại diện cho cái thiện, cái đẹp. Người hùng tài hoa và vị quan coi ngục cùng thầy thơ lại cũng trái ngược, người thì đĩnh đạc, kẻ lại khúm núm. Những chi tiết này được Nguyễn Tuân khéo léo sắp xếp nhằm mang đến một tác phẩm ấn tượng cho bạn đọc. Tái hiện lại nét đẹp xưa, ngôn từ của Chữ người tử tù cổ kính mà giàu tính tạo hình. Những từ Hán Việt như “thằng thập”, “tâm điền”, “khí phách” và vô vàn từ khác đã mang lại không khí cổ xưa, gần gũi. Khi đọc tác phẩm, độc giả dễ dàng hình dung nhân vật lẫn tình huống truyện, điều này nhờ vào năng lực đặc biệt của “tay phù thuỷ ngôn từ” Nguyễn Tuân. Bên cạnh đó, tình yêu ông dành cho những con người tài hoa, bất đắc chí đã tạo động lực để nhà văn sáng tác thiên truyện tuyệt vời này. Văn phẩm vang bóng đến ngàn sau Chữ người tử tù là viên ngọc toàn thiện, toàn mỹ, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn đàn Việt Nam. Tác phẩm đi vào lòng người đọc, chứng minh tài năng của ngòi bút Nguyễn Tuân. Dẫu nhiều thập kỷ đã trôi qua song nét đẹp vị anh hùng Huấn Cao và viên quan coi ngục luôn trường tồn. Trong xã hội hiện đại, độc giả vẫn tôn vinh nét đẹp xưa và xem Chữ người tử tù là cánh cửa mở đến chân trời của những nho sĩ cuối mùa. Như các văn phẩm khác trong Vang bóng một thời, truyện ngắn Chữ người tử tù sẽ nằm mãi trong tim người yêu văn học Việt Nam. Thiên truyện chứa đựng giá trị của một thời vàng son, đồng thời lan rộng giá trị đến tận những thế hệ sau. Bích Thuỳ
Dàn ý Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 5 mẫu Bài giảng Chữ người tử tù – Cô Thúy Nhàn Giáo viên VietJack Đề bài Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Dàn ý Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 1 I. Mở bài – Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân Một cây bút tài hoa độc đáo, có vị trí quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam – Khái quát chung về tác phẩm Chữ người tử tù Một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách tài hoa nghệ sĩ của ông, được in trong tập Vang bóng một thời 1940 II. Thân bài 1. Tình huống truyện + Không gian nhà tù. Đây không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ. + Thời gian những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. ⇒ Không gian và thời gian góp phần tạo nên kịch tính cho tình huống. – Cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường ⇒ Cuộc hội ngộ diễn ra giữa chốn ngục tù căng thẳng 2. Nhân vật Huấn Cao a. Một người nghệ sĩ tài hoa – Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người + có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”. + “ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm … có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật ở trên đời”. b. Một con người có khí phách hiên ngang bất khuất – Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình. – Ngay khi đặt chân vào nhà ngục Thản nhiên rũ rệp trên thang gông ⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho – Khi được viên quản ngục biệt đãi “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh” ⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết. – Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”. ⇒ Không khuất phục trước cường quyền. ⇒ khí phách của một người anh hùng. c. Một nhân cách, một thiên lương cao cả – Tâm hồn trong sáng, cao đẹp “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” ⇒ trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỉ. – Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục xem y là kẻ tiểu nhân – Khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục Huấn Cao nhận lời cho chữ ⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp. – Câu nói của Huấn Cao với quản ngục “Thiếu chút nữa … trong thiên hạ” ⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp. ⇒ Huấn Cao là một anh hùng – nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng. 3. Nhân vật quản ngục a. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài – Trong những ngày Huấn Cao trong ngục, quản ngục luôn bày tỏ thái độ nghiêm kính khiêm nhường – Dũng cảm biệt đãi Huấn Cao – Cảm thấy tiếc nuối khi biết Huấn Cao sắp phải từ giữ cõi đời “Bấy nhiêu …vũ trụ”. b. Sự khát khao và trân trọng cái đẹp – Khát khao cái đẹp mong ước của ông là “được treo ở nhà riêng một đôi câu đối” do chính tay Huấn Cao viết. – Lo lắng nếu như không xin được chữ ông Huấn trước khi bị hành hình thì “ân hận suốt đời mất” 4. Cảnh cho chữ – Thời gian đêm trước khi Huấn Cao ra pháp trường chịu án chém, khi chỉ còn “vẳng có tiếng mõ trên vọng canh” – Địa điểm trại giam tỉnh Sơn – Không gian buồng tối chật hẹp, ẩm ướt… – Đây là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” + Thân phận và hành động của người cho chữ và nhận chữ đặc biệt + Xây dựng được các cặp phạm trù đối lập nhau – Chi tiết quản ngục cúi đầu vái lạy người tử tù Huấn Cao sự thức tỉnh trước cái đẹp, quản ngục đã thoát ra những cái tầm thường, ràng buộc để vươn tới cái cao đẹp. ⇒ Toàn bộ cảnh cho chữ là bài ca tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái thiên lương của con người trong hoàn cảnh tối tăm ngục tù bậc nhất. III. Kết bài – Khẳng định những nét nghệ thuật đặc sắc làm nên thành công của tác phẩm – Chữ người tử tù là một văn phẩm xuất sắc đạt “gần đến sự toàn thiện, toàn mĩ” Vũ Ngọc Phan Dàn ý Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 2 1, Mở bài – Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân và những nét đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông. – Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Chữ người tử tù” xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,… 2, Thân bài a Tình huống truyện – Cuộc gặp gỡ đầy éo le giữa Huấn Cao và viên quản ngục nơi chốn ngục tù trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Huấn Cao – Ý nghĩa + Tăng kịch tính và sức hấp dẫn cho tác phẩm + Giúp nhân vật bộc lộ tính cách + Góp phần thể hiện quan điểm của Nguyễn Tuân về cái đẹp. b Nhân vật Huấn Cao – Là người có tài viết chữ đẹp, nổi tiếng khắp nơi + Lời khen của viên quản ngục và thầy thơ lại + Viên quản ngục luôn khát khao, ao ước có chữ ông Huấn để treo trong nhà – Là người có khí phách hơn người, bất khuất và hiên ngang + kẻ “chọc trời khuấy nước”, là người dám cầm đầu cả một cuộc đại phản chống lại triều đình để không đi lại lề lỗi cũ + Người khiến cho bọn lính mới nghe tên cũng phải dè chừng, lo lắng + Thái độ “dỗ gông’ đầy bản lĩnh – Người có thiên lương trong sáng + Không vì vàng bạc, quyền lực mà ép mình cho chữ + Cho chữ viên quản ngục vì cảm tấm lòng của viên quản ngục. c Nhân vật viên quản ngục – Người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” + Chưa từng gặp Huấn Cao nhưng lại rất kính trọng ông + Cách đối xử, thái độ của viên quản ngục khi Huấn Cao ở tù d Cảnh cho chữ – Diễn ra nơi chốn ngục tù ẩm ướt trong một đêm tối tĩnh mịch – Hình tượng diễn ra “ba con người chụm nhau dưới ánh sáng của bó đuốc đang dậm tô những nét chữ” – Là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Ý nghĩa + Góp phần thể hiện tính cách, vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật + Góp phần thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp. 3, Kết bài – Khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của thiên truyện “Chữ người tử tù” và tài năng của Nguyễn Tuân được thể hiện qua tác phẩm. – Nêu những cảm nghĩ của bạn về tác phẩm này. Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 1 Nguyễn Tuân là một con người rất mực tài hoa, là bậc thầy về truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Ở giai đoạn trước ông được coi là nhà văn “duy mĩ” say mê cái đẹp và coi cái đẹp là đỉnh cao của nhân cách con người. “Vang bóng một thời” là tập truyện tiêu biểu cho sáng tác thời kì này của Nguyễn Tuân, không tin tưởng ở hiện tại và tương lai ông đi tìm vẻ đẹp quá khứ của một thời vang bóng xa xưa với những phong tục, thú vui tao nhã lành mạnh trong đó có thú chơi chữ của Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Hai con người có nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng và cảnh cho chữ lạ lùng được hiện lên trong tác phẩm làm nổi bật cho tài năng văn chương và tư tưởng của Nguyễn Tuân. Huấn Cao trong câu chuyện là một người có tài viết chữ đẹp nhưng vì chống lại triều đình mà bị lãnh án tử hình. Trước khi xử án ông được đưa đến một trại giam có viên quản ngục và thầy thơ lại yêu quý nét chữ, trân trọng người tài Huấn Cao nên đã biệt đãi tù nhân, mong muốn ông Huấn cho chữ. Hiểu được tấm lòng ấy người tử tù có thiên lương trong sáng đã cho chữ trong hoàn cảnh éo le trước giờ chưa từng có. Tình huống truyện là cuộc gặp gỡ giữa hai con người khác biệt một bên là Huấn Cao có tài viết chữ nhưng lại đối đầu với triều đình, một bên là viên quan coi ngục đại diện cho người gìn giữ trật tự xã hội phong kiến đương thời nhưng lại khao khát ánh sáng chữ nghĩa. Hai con người đối lập trên bình diện xã hội nhưng lại là tri âm, tri kỉ với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân đặt vào trong tình huống đối nghịch tạo ra kịch tính cho câu chuyện và cảnh cho chữ là nút thắt được tháo gỡ. Huấn Cao là một con người tài hoa uyên bác, khí phách hiên ngang, anh hùng bất khuất và có một thiên lương trong sáng được hiện lên trong tác phẩm. Trước tiên là gián tiếp ở phần đầu qua cuộc đối thoại của viên quản ngục với thầy thơ lại. Tài năng viết chữ đẹp của ông được người ở vùng tỉnh Sơn ca tụng khiến cho viên quan coi ngục đau đáu một lòng với sở nguyện xin được chữ ông Huấn về treo ở nhà riêng của mình bởi “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Nguyễn Tuân đã miêu tả sở nguyện của viên quan coi ngục để làm nổi bật lên chất tài hoa nghệ sĩ mà bao nhiêu người trong thiên hạ hằng khao khát có được. Không chỉ vậy người tử tù rất anh hùng là tên cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình vì bất mãn với chính sách cai trị triều chính, là kẻ không sợ lời đe dọa của bọn lính áp giải mà tự do, hiêng ngang dỗ gông để trận mưa rệp rơi xuống đất, thản nhiên nhận rượu thịt ung dung làm một người tù tự do trong nhà lao. Có mấy ai trước khi chết mà vẫn giữ được bản lĩnh và phong thái như vậy? Ông làm ra vẻ khinh bạc viên quan coi ngục với câu nói “Ngươi hỏi ta muốn gì ư? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” xưa nay ta chỉ thấy quan coi ngục đánh mắng người tù chứ hiếm khi thấy điều ngược lại. Con người ấy hiện lên qua suy nghĩ của quan lại coi ông là một tên tội phạm nguy hiểm, là kẻ chọc trời khuấy nước khi nhận được án chém vẫn bình tĩnh, tự tin đón nhận cái chết. Huấn Cao không bao giờ khuất phục trước uy quyền, cường quyền và bạo lực. Ông là một nhân vật hiếm có xưa nay bởi sự hòa quện của chất nghệ sĩ với chất anh hùng tạo nên nét riêng biệt, độc đáo khác với các nhân vật trong “Vang bóng một thời”. Con người ấy còn có một thiên lương trong sáng không phải ai trên đời ông cũng cho chữ, cuộc đời ông Huấn chỉ mới cho ba lần là ba người bạn tri kỉ. Nhưng khi hiểu được tấm lòng của quan coi ngục ông mỉm cười nhắc thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội được đáp lại sự chân tình ấy. Giọng Huấn Cao đã trở nên từ tốn, hòa dịu hơn rất nhiều “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem, mực, bút và cả bó đuốc xuống đây ta cho chữ”. Cho chữ chứ không phải là viết chữ, nghe như là lời của bề trên ban xuống cho người dưới. Ông khẳng định “Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Huấn Cao không màng vinh hoa phú quý cũng không sợ cường quyền mà ép mình làm điều không thích. Dù ở trong chốn ngục tù bị giam cầm về thân xác nhưng tâm hồn ông không bao giờ bị giam giữ, ông vẫn luôn tự do về nhân cách. Ông Huấn quyết định cho chữ trong hoàn cảnh “xưa nay chưa từng có” theo như Nguyễn Tuân nhận xét. Cảnh cho chữ thật xác đáng là một nghệ thuật đặc sắc được nhà văn miêu tả thật đáng khâm phục tài năng. Thời gian là đêm cuối của một người tù trước khi ra pháp trường. Quang cảnh cho chữ vừa lạ vừa đẹp vừa như một ảo ảnh. Lạ vì xưa nay người ta cho chữ trong căn phòng sạch sẽ, lung linh ánh nến ánh đèn, có mùi thơm của hương trầm nhưng ở đây tại nhà lao chẳng có gì ngoài “Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” chỉ có ánh đuốc tẩm dầu sáng đỏ rực, khói tỏa như đám cháy nhà. Phòng giam ba người nhưng chỉ một người hoạt động. Thầy thơ lại run run bưng chậu mực. Viên quản ngục hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa”, từng nét chữ thoăn thoắt được viết ra, “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Ta thấy tư thế đối nghịch nhau giữa một người tù bị giam cầm và hai người tự do đại diện cho cường quyền bấy giờ. Huấn Cao thì ung dung, tự tại và đối lập với tư thế ấy là sự “khúm núm” của viên quan coi ngục và “run run” của thầy thơ lại. Cái “khúm núm” của quan coi ngục không phải là cái cúi đầu hèn hạ mà trái lại rất đáng trân trọng. Ông cúi đầu thành kính trước cái đẹp đó là một điều nên làm ở trong đời. Vị thế và tâm thế bị đảo ngược hoàn toàn. Người có quyền lại không có uy, người tử tù lại giữ trong tay quyền sát quyền sinh, người đáng lẽ phải giáo dục, giáo hóa tội phạm thì nay lại được tội phạm giáo dục lại nhân cách, thiên lương khi được ông Huấn cho lời khuyên nên thay chốn ở đi, “Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” đó là lời khuyên chân thành để giữ được nhân cách cao đẹp. Trước tấm lòng chân tình ấy viên quản ngục lùi ra mà nói gần như muốn khóc và cảm động “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cả ba con người cùng đồng điệu, cùng chung một tấm lòng yêu tha thiết cái đẹp, cái đẹp chữ viết đi liền với cái đẹp tâm hồn và nhân cách thiên lương trong sáng. Như vậy qua tác phẩm “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân đã cho ta thấy ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Trước tiên đó là thái độ hủy diệt. Điều đó được biểu hiện qua mấy tên lính mà nhà văn miêu tả sơ lược ở đoạn đầu với thái độ hách dịch, vô lễ với Huấn cao và bạn tù của ông. Chúng là hạng thiên lôi tàn bạo chỉ đâu đánh đó, ở trong chốn ngục tù lâu ngày bị nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Ngoài ra qua mệnh lệnh của quan trên tai to mặt lớn ở Hưng Sơn Tuyên đốc bộ đường đại diện cho chính quyền phong kiến bảo thủ, trì trệ cố hủy diệt tài năng của người tài để gìn giữ ngôi báu tàn bạo, độc ác của mình. Thái độ thứ hai là yêu mến cái đẹp và quý trọng người tài. Thể hiện qua tấm lòng, hành động của viên quản ngục và thầy thơ lại. Họ cảm mến Huấn Cao qua lời đồn, luôn muốn biệt nhưỡng người tài và bất chấp cả nguy hiểm đến tính mạng để có thể hoàn thành sở nguyện cao đẹp là xin chữ ông Huấn. Họ tiếc cho một nhân tài như ông lại bị đao chém pháp trường hủy diệt. Cái đẹp thì ai cũng quý nhưng biết đẹp mà quý cũng đáng trân trọng biết bao bởi nó làm cho con người đẹp lên, phẩm chất cao hơn và thơm ngát hơn cho tấm lòng thiên lương trong sáng, thanh sạch. Thái độ thứ ba là sự cao thượng và rộng lượng của bậc chính nhân quân tử, nghệ sĩ tài ba của Huấn Cao. Điều đó được biểu hiện qua nhân cách và hành động của ông được tác giả khắc họa. Huấn Cao là con người đặc biệt có một không hai trong trang viết của Nguyễn Tuân để lại cho tác giả sự trân trọng và nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho một con người tài giỏi, có nghĩa khí và nhân cách cao đẹp lại gặp không đúng thời, đúng vận mệnh. Huấn Cao ngày nay cũng rất nhiều nhưng không ít người đang dần bị vùi chôn bởi thế lực quyền uy và sức mạnh của đồng tiền. Theo như thông tin của Bộ giáo dục ngày 17/7/2018 ở Hà Giang sau khi thanh tra rà soát lại công tác chấm thi có 114 thí sinh bị hạ điểm vì điểm thi công bố bị gian lận, nâng lên quá nhiều so với năng lực thực tế của các em. Nạn chảy máu chất xám, mua điểm, mua quan bán chức… đã khiến biết bao người tài có trí tuệ tài năng thực sự bị vùi dập một cách tàn bạo. Đó là nỗi đau lớn của ngành giáo dục của cả đất nước con người Việt Nam. Hiền tài như Huấn Cao nhưng lại bị cướp trắng trợn cơ hội để cống hiến cho đất Việt. Qua tác phẩm tác giả thể hiện được tư tưởng của mình về nghệ thuật và nhân phẩm con người. Nhân cách đẹp là sự kết hợp giữa cái tài và cái tâm và cái đẹp luôn phải gắn liền với cái thiện không thể tách rời, bản thân cái đẹp chính là đạo đức. Cái đẹp không chỉ được sáng tạo ra ở nơi thanh tao, sạch sẽ mà ngay ở trong môi trường của cái xấu và cái ác nó cũng luôn tồn tại nhưng không vì thế mà lụi tàn trái lại càng nó càng tỏa sáng rực rỡ và mạnh mẽ hơn. Chỉ có cái đẹp mới có thể cảm hóa được tâm hồn con người làm cho chúng trở nên tốt hơn, cao đẹp hơn ở trên đời. Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản với bút pháp tả thực và lãng mạn đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ gây ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Tuân phải là một con người yêu mến và trân trọng tài năng, cái đẹp vô cùng mới có thể viết được truyện ngắn “Chữ người tử tù” với sự hiện thân của hai con người có nhân cách cao đẹp như Huấn Cao và viên quản ngục hay đến thế. Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 2 Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập Vang bóng một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến Chữ người tử tù với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống. Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời. Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp. Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm. Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài. Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thình một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ ngày mai vào kính chịu án chém, Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười. Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ta tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ. Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm núm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sung kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa. Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đặc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm. Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 3 Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” 1939 trong tập “Vang bóng một thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục. Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao Cao là họ, Huấn là dạy. Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ. Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật. Họ đã gặp nhau trong tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khởi nghĩa nông dân triều đình gọi là nổi loạn, giặc đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc. Huấn Cao nói “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ. Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù. Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy. Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này. Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn. “Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân. Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 4 Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ Tạ Tỵ. Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân. Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người. Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng. Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều… lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất. Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao. Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã hoặc là muốn làm tròn bổn phận của một viên quan thì phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó. Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ. Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng. Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm. Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng. Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù mẫu 5 Bước vào văn đàn Việt Nam, ta không khỏi ngỡ ngàng bởi cái đẹp hiện hữu khắp mọi nơi, man mác khắp các trang văn “man mác khắp vũ trụ” Thạch Lam. Đến với những trang viết của Nguyễn Tuân- “một người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”, ta bắt gặp một cuộc gặp gỡ, một cuộc hội ngộ của cái đẹp trong hoàn cảnh đề lao tăm tối, tàn nhẫn. Đó là cuộc gặp gỡ của những nhân cách đẹp, những con người biết tạo ra và trân trọng cái đẹp trong cuộc đời. Ai đó đã cho rằng “suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân”. Thật vậy, cái đẹp như một chất xúc tác kì diệu và đến khi bước vào trang viết của Nguyễn Tuân thì được phát lộ, tỏa sáng lạ thường. “Chữ người tử tù” chính là cuộc gặp gỡ của cái đẹp của Huấn Cao và viên quản ngục, cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường giữa chốn lao tù. Bởi sự say mê và ngưỡng mộ, ngục quan – kẻ nắm giữ uy quyền trong nhà lao đã âm thầm biệt đãi Huấn Cao-người tử tù nổi tiếng bởi tài hoa và khí phách phi thường. Đó cũng là cuộc gặp gỡ đặc biệt, một cuộc gặp gỡ chưa từng có bao giờ của một kẻ tù nhân phạm tội với một người đại diện cho pháp luật và uy quyền. Nhưng ở địa hạt của cái đẹp, họ là những nhân cách đồng dạng là những con người biết sinh thành và nuôi dưỡng cái đẹp trong cuộc đời. Xét đến cùng “Chữ người tử tù” là cuộc hội ngộ của những nhân cách cao đẹp bị cầm tù bởi bạo lực, hoàn cảnh, là hiện thân của cái đẹp trong cuộc sống này! Người đã thai nghén, sinh thành ra cái đẹp trong “Chữ người tử tù” không ai khác, chính là Huấn Cao – “là người của vùng tỉnh Sơn”, “viết chữ rất nhanh, rất đẹp” và “có chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Tiếng thơm của người nghệ sĩ ấy đã được ngợi ca qua những khao khát và sự ngưỡng mộ của quản ngục. Ca ngợi tài hoa của Huấn Cao, coi những con chữ của Huấn Cao là tác phẩm vô giá, Nguyễn Tuân đã gửi gắm lòng yêu quý cái đẹp và sự trân trọng văn hóa cổ truyền dân tộc, đúng như Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét “Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc”. Song ai đó đã cho rằng “Huấn Cao là sự nổi loạn của cái đẹp”. Quả không sai bởi Huấn Cao không chỉ phát lộ cái đẹp của thiên lương mà còn tỏa sáng cái đẹp rạng ngời của người anh hùng đầy khí phách. Trong hoàn cảnh đề lao nhưng khí phách của ông vẫn không bị nguội lạnh, ông đã dám chống lại triều đình phong kiến, ông tỏ thái độ coi thường, bất chấp trò tiểu nhân thị oai của bọn lính canh, thái độ cao ngạo, khinh bạc trước sự biệt đãi của quản ngục. Đó như là lời thách thức với cường quyền bạo lực. Khi ngục quan khép nép hỏi ông Huấn “ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp.” Ông Huấn đã trả lời “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Lời nói ấy như một gáo nước lạnh nhưng lại làm quản ngục thêm phần kính nể Huấn Cao. Đó hẳn phải là khí phách của một trang nam nhi chọc trời khuấy nước. Cách hành xử của Huấn Cao cho thấy dù ở trong hoàn cảnh nào ông vẫn hoàn toàn tự do về nhân cách. Sự lễ phép và khúm núm cả viên quản ngục càng tô đậm tầm vóc kì vĩ, vẻ đẹp hiên ngang của ông Huấn. Huấn Cao không vì quyền thế hay tiền bạc mà ép mình cho chữ bao giờ. Cả đời ông cũng chỉ cho chữ ba người bạn thân. Nhưng khi biết được tâm sự và tấm lòng của người quản ngục, Huấn Cao đã đột ngột thay đổi “nào ta có biết đâu, một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Huấn Cao đã nắm bắt và nâng đỡ ánh sáng của thiên lương và việc cho chữ là việc “một tấm lòng ta đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ”, là hành động đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ. Huấn Cao chính là sự hiện diện của cái đẹp toàn diện, “sự tỏa sáng của những tấm lòng” xuyên suốt “Chữ người tử tù”. Lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân Huấn Cao đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp thiêng liêng, tao nhã của nền văn hóa cổ truyền, kết tinh tinh hoa dân tộc. Yêu mến, ngợi ca và tiếc nuối những con người như ông Huấn, Nguyễn Tuân đã gián tiếp bày tỏ tấm lòng của mình với những giá trị ngàn xưa đồng thời bày tỏ quan niệm thẩm mĩ tiến bộ cái đẹp, cái thiện luôn luôn song hành và làm nên nhân cách con người. Ai đó đã cho rằng “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ”. Thấp thoáng đâu đó trong bóng dáng của người tử tù ta cũng thấy cái nét “ngông” vừa cổ điển, vừa kế thừa truyền thống tài hoa của thế hệ trước, một cái ngông luôn luôn muốn phản ứng lại hiện thực xã hội đương thời, một cái ngông chỉ xuất hiện trong những trang viết của Nguyễn Tuân. Đằng sau sự tài hoa của Huấn Cao, nhân vật quản ngục xuất hiện như hiện thân của niềm say mê, trân trọng cái đẹp. Đó như một phép màu kì diệu biến quản ngục thành “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Tâm nguyện cả đời của quản ngục, không gì hơn, đó là có được chữ của ông Huấn để treo ở nhà riêng. Tâm nguyện ấy bỗng chốc biến viên quản ngục đẹp như một người nghệ sĩ thực thụ, biết say mê, biết hướng về cái đẹp đúng như Ralph Waldo Emerson cho rằng “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính”. Quản ngục biệt đãi Huấn Cao, luôn luôn cung kính và lễ phép trước thái độ kiêu ngạo của ông Huấn, thành kính đón nhận những lời khuyên của ông. Chính điều đó đã mở đường cho quản ngục đến với cái đẹp. Tư thế khúm núm, thái độ và hành động bên ngoài có vẻ ủy mị khi lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách của ngục quan, làm cho nhân vật trở nên đáng quý, đáng trân trọng. Đặc biệt, ông còn cúi đầu thành kính đón nhận lời khuyên của ông Huấn. Ông cúi đầu nhưng không hề trở nên hèn kém mà trái lại, nó còn làm cho ông trở nên cao thượng hơn bao giờ. Nguyễn Đăng Mạnh từng cho rằng “Có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái cúi lậy làm con người trở nên đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm con người trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương”. Và cái cúi đầu của quản ngục cũng thật cao đẹp chẳng khác nào cái cúi đầu của Cao Bá Quát khi xưa “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” Cả đời sinh ra chỉ để cúi đầu trước hoa mai. Nếu Huấn Cao là nơi nhà văn gửi gắm những quan niệm thẩm mĩ tiến bộ thì quản ngục là nơi nhà văn gửi những quan niệm nhân sinh sâu sắc Bản thân mỗi con người luôn khao khát và hướng về cái đẹp. Bởi vậy, phải biết nhìn sâu vào tâm hồn con người để nắm bắt ánh sáng của thiên lương. Và hơn cả, cái đẹp “man mác khắp vũ trụ”, nó tồn tại ngay cả trong cái ác để đẩy lùi bóng tối, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Cảnh tượng đẹp nhất trong “Chữ người tử tù “chính là cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có bao giờ, đặc biệt là trong hoàn cảnh đề lao, nơi “người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”, cái đẹp vẫn ngang nhiên được sinh thành. Ta ngỡ ngàng khi thấy “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Bóng tối của nhà tù thực dân đã bị đẩy lùi bởi ánh sáng của tài hoa, thiên lương, nhường chỗ cho cái đẹp được sinh thành. Cái đẹp đã trở thành tác nhân làm đảo lộn ý thức xã hội, nó được khai sinh trên một mảnh đất chết, từ bàn tay của người tử tù sắp chết nhưng vẫn phát lộ rực rỡ và có sức cảm hóa mãnh liệt. Lời khuyên của quản ngục dành cho người tử tù đã thể hiện một quan niệm sâu sắc về nghệ thuật Cái đẹp không bao giờ chung sống với cái ác, mãi mãi là như vậy. Đó cũng là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân về sức mạnh của cái đẹp, cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới này! Vũ Ngọc Phan cho rằng “Đọc văn Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng thấy một hứng thú đặc biệt sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam”. Thật vậy, cái hứng thú đặc biệt ấy không chỉ toát lên từ tác phẩm mà còn toát lên từ hình thức nghệ thuật độc đáo. Ông sử dụng bút pháp tương phản để dựng lên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, để tô đậm sự thắng thế của cái đẹp trong cuộc đời. Ai đó đã cho rằng “ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tuôn ra như muốn thi tài với hóa công”. Nhà văn với văn phong “đặc Việt Nam” Vũ Ngọ ấy đã khéo léo sử dụng những từ Hán Việt để tạo màu sắc cổ kính, trang nghiêm cho tác phẩm, để “Chữ người tử tù” trở thành một trong những” nén tâm hương nguyện cầu cho cái đẹp cổ truyền Việt Nam” Văn Tâm. Câu chuyện như một thước phim quay chậm, người đọc như được chứng kiến tận mắt ánh sáng được nhen lên, tỏa sáng và che đi bóng tối. Và các nét chữ hiện hình “như một nét bút trác tuyệt được chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn từ”. “Chỉ người suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, bởi văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” Vũ Ngọc Phan. Bởi vậy, khi đến với chữ người tử tù, hãy từ từ đón nhận ánh sáng của cái đẹp để thanh lọc tâm hồn, để thấu hiểu và cảm nhận…” Chữ người tử tù không chỉ “vang bóng một thời” mà còn vang bóng mãi muôn sau. Xem thêm các bài văn mẫu phân tích, dàn ý truyện ngắn Chữ người tử tù hay khác Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân dàn ý + 8 mẫu Dàn ý Phân tích hình tượng Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù 4 mẫu Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù dàn ý + 8 mẫu Phân tích hình tượng Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù dàn ý + 5 mẫu Dàn ý Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù 4 mẫu Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù dàn ý + 7 mẫu Dàn ý Phân tích cảnh cho chữ trong truyện Chữ người tử tù 4 mẫu Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù dàn ý + 8 mẫu Dàn ý Phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù 4 mẫu Phân tích nhân vật viên quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù dàn ý + 6 mẫu Giới thiệu kênh Youtube VietJack Ngân hàng trắc nghiệm lớp 11 tại Hơn câu trắc nghiệm Toán 11 có đáp án Hơn câu trắc nghiệm Hóa 11 có đáp án chi tiết Gần câu trắc nghiệm Vật lý 11 có đáp án Kho trắc nghiệm các môn khác
I. TÌM HIỂU CHUNG1. Tác giả2. Tác phẩmII. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC1. Nhân vật Huấn Cao2. Nhân vật viên quản ngục3. Cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa nay chưa từng cóIII. TỔNG KẾT I. TÌM HIỂU CHUNG 1. Tác giả – Nguyễn Tuân 1910 – 1987 sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Ông quê ở xã Nhân Mục, thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. – Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng một thời, Một chuyến đi… Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị. – Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại Thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa mà độc đáo. – Nguyễn Tuân có 1 kho từ vựng hết sức phong phú và khả năng sáng tạo từ mới. Văn Nguyễn Tuân là 1 sự co duỗi nhịp nhàng. Với ông, viết văn mà hạn hẹp và thiếu thốn từ ngữ sẽ tạo ra loại văn “thấp khớp”, hời hợt, nông cạn. – Trước Cách Mạng văn Nguyễn Tuân thường mang tâm sự của 1 người sinh bất phùng thời; thể hiện sự phủ nhận với xã hội thực tại, quay về với vẻ đẹp xưa của 1 thời chỉ còn vang bóng; hoài cổ, hoài niệm về những điều đã qa đã mất đã phôi pha; Nhân vật là những nhân vật đặc tuyển, HIẾM VÀ QUÝ những nhà nho, tài tử.. Họ là nên cặp nhân vật có tính cách đối sánh…1 nét đặc biệt trong văn Nguyễn Tuân; Giọng điệu bất bình trước xã hội, mang tính chất khinh bạc. – Sau Cách Mạng Nguyễn Tuân viết về cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân, hiện thực đất nước trong những năm kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhân vật thường là những con người đời thường, người lao động như anh lái đò, chị dân quân… không hiếm nhưng quý, cống hiến một phần sức lực cho đất nước. Giọng điệu ấm áp, thân tình và ân tình. 2. Tác phẩm a. Xuất xứ tác phẩm – Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tủ tù. Vang bóng một thời khi Nguyễn Tuân in lần đầu 1940 gồm 11 truyện ngắn, là tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét là “một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ”. b. Tóm tắt tác phẩm Chữ người tử tù – Nhân vật chính trong Vang bóng một thời phần lớn là những nho sĩ cuối mùa những con người tài hoa, bất đắc chí. Gặp lúc Hán học suy vi, sống giữa buổi “Tây Tàu nhố nhăng”, những con người này, mặc dù buông xuôi bất lực nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời. Họ không chịu a dua theo thời, chạy theo danh lợi mà vẫn cố giữ “thiên lương” và sự trong sạch của tâm hồn”. Họ dường như cố ý lấy “cái tôi, tài hoa, ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm tục; phô diễn lối sống đẹp, thanh cao của mình như một thái độ phản ứng trật tự xã hội đương thời. Trong số những con người tài hoa ấy, nổi bật lên hình tượng ông Huấn Cao trong Chữ người tử tù, một con người tài hoa, không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng; mặc dù chí lớn không thành những tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất. c. Ý nghĩa nhan đề “Chữ người tử tù” ban đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng”, sau khi in lại trong tập “Vang bóng một thời” được đổi tên lại. Điều đó cho thấy sự cân nhắc cùng với dụng ý nghệ thuật của nhà văn + “Dòng chữ cuối cùng” chỉ gắn với con chữ mà Huấn Cao cho quản ngục trước khi lĩnh án tử hình à Chỉ nhấn mạnh vào chữ và thời gian cho chữ, gợi lên màu sắc bi quan, cái chết và sự chấm dứt + “Chữ người tử tù” là nhan đề nói được nhiều hơn thế. Chữ người tử tù là chữ của Huấn Cao, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình, bị bắt và bị kết án tử hình. Đây cũng chính là nhân vật trung tâm của truyện + Giá trị, ý nghĩa của chữ Hội tụ và làm tỏa sáng hình tượng chính tài năng kiệt xuất trong nghệ thuật thư pháp; mang hoài bão tung hoành, khí phách anh hùng; có cái tâm trong sáng, tấm lòng tha thiết giữ gìn thiên lương lành vững cho con người. Bộc lộ lí tưởng của nhà văn cũng như toàn bộ nội dung chủ đề của tác phẩm cái đẹp phải là sự chung đúc, hội tụ của tài hoa, khí phách, thiên lương, cái đẹp ấy sẽ đc sinh ra, tồn tại và bất tử ngay tại nơi cái xấu tồn tại. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh việc xin chữ, cho chữ -à Chi phối cốt truyện, diễn biến, tình huống truyện. II. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC 1. Nhân vật Huấn Cao – Huấn cao là nguyên mẫu của người anh hùng Cao Bá Quát. Là con người đạt tới sự hài hòa tuyệt đối giữa cái tài, cái tâm và cái đẹp. – Huấn Cao là người có khí phách phi thường + Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án, tố cáo sự trắng trợn của triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát. Huấn Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ ngạo ngược và nguy hiểm nhất, nên đề phòng. Đối với thầy thơ thì ông văn võ đều có tài cả, còn đối với người quản ngục thì Huấn Cao là người chọc trời quấy nước, coi thường tiền bạc và bạo ngược. + Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn. Là một kẻ tử tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên với bất cứ ai. Không cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục. – Huấn Cao là người tài hoa xuất chúng + Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp. Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sùng bái và ngưỡng mộ như vậy. Chữ của ông như một báu vật trên đời, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. + Huấn Cao không biết ông quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữ của mình, được treo chữ của ông viết ở trong nhà Chữ ông Huấn Cao đẹp và vuông lắm. => Huấn Cao là một người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất trong sáng và ngay thẳng. + Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình viết bao giờ”. Đấy là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất. – Huấn Cao là người có cái tâm cao cả + Huấn Cao còn là một người trân trọng tình bạn, mến mộ những con người có “chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, sau khi biết được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mộ trước tấm chân tình cũng như sự yêu mến và khát khao có được chữ của ông. + Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui thanh tao giữa chốn lao tù nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. + Chỉ một cụm từ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp “Chân-Thiện-Mỹ”. – Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tưởng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. – Hình ảnh ba con người hiện lên trong cảnh tượng ấy thật đẹp, thật lung linh, họ không còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao vương xiềng xích, tung bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. => Xây dựng nhân vật Huấn Cao – kẻ sĩ tài tử, anh hùng – nhà văn Nguyễn Tuân vừa biểu lộ một tấm lòng kính phục, ưu ái đặc biệt, vừa thể hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo tuyệt vời. 2. Nhân vật viên quản ngục – Là nhân vật phụ của truyện, nhưng nhân vật quản ngục lại có một sứ mệnh nghệ thuật không nhỏ. Nếu Huấn Cao là hình ảnh của những người có khả năng tạo ra cái đẹp thì viên quản ngục lại là biểu tượng của người biết thưởng thức và cảm nhận cái đẹp. Chính vì vậy, nhân vật này tạo thành một cặp tương đồng và tương xứng với Huấn Cao. – Ở phần đầu truyện ngắn, quản ngục đã nói về người tử tù Huấn Cao bằng những lời trầm trồ, thán phục một cách chân thành Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngời ngợi. Huấn Cao? Hay là cái người mà tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp không?. Đó là một chuyện xưa nay chưa có kẻ coi ngục nào từng làm đối với người tù của mình. => Tâm trạng chờ đợi, mong ngóng sự xuất hiện của Huấn Cao cũng là điều khó hiểu ở kẻ coi tù này. – Với tư cách là người dẫn truyện, Nguyễn Tuân đã dành cho nhân vật quản ngục những lời tốt đẹp đầy trân trọng. Nếu xem cuộc đời như một dòng thác dữ thì viên quản ngục, trong những suy tư chìm đắm về ông Huấn, lại có gương mặt của một “mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Nếu xã hội đương thời nhiễu nhương như “một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ” thì viên quản ngục, với “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”, là một âm thanh trong trẻo “chen vào giữa bản đàn ấy”. => Việc nhà văn tạo ra một nhân vật khác đời và khác người như thế, đây cũng là lẽ đương nhiên với một tính cách và phong cách độc đáo như Nguyễn Tuân. – Viên quản ngục được nói đến trong tác phẩm là một người có “sở thích cao quý”. Để tạo ra thư pháp cần đến một tài năng siêu phàm, nhưng để hiểu và yêu nghệ thuật này thì lại cần đến một sở thích cao quý, một tấm lòng tri kỉ. Điều đáng nói là sở nguyện này lại có ở một con người phải hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc và chung sống với cái ác, cái xấu và những cặn bã trong xã hội. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sở thích của quản ngục được đẩy lên đến mức phi thường và viên quản ngục được nâng lên thành một kiểu tài hoa, nghệ sĩ. Vì tình yêu với cái đẹp, con người có nghiệm vụ thi hành pháp luật này đã bất chấp cả luật pháp, dám cả gan biệt đãi một kẻ tử tù, sẵn sàng mang cả tính mạng củ mình ra thế chấp để đổi lấy cái đẹp mà mình tôn thờ. Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căng thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính cách của Huấn Cao “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ nên ông rất khổ tâm vì không biết làm thế nào để xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất. Mặt khác, viên quản ngục luôn luôn phải dò xét, đề phòng cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”. – Bên cạnh đó, quản ngục còn là một người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài + Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại. Mặc dù bị ông Huấn nói những lời ra lệnh và có vẻ khinh bạc đến điều, Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây, nhưng ông vẫn không tự ái, mà lại còn chấp nhận xin lĩnh ý, làm theo đầy nhịn nhục. + Những bữa cơm với rượu và thịt vẫn tiếp tục được mang đến có phần nồng hậu hơn. Bởi ông có con mắt tinh đời để thấu hiểu và lí giải cái nguyên cớ bên trong của thái độ, của hành động kiêu ngạo ấy. + Lần nào xuất hiện trước mặt Huấn Cao, ông cũng có vẻ khúm núm, khép nép. Đó không phải là biểu hiện của sự sợ hãi mà là thái độ quy phục. Sự nhịn nhục của con người này không đồng nghĩa với sự hạ mình. Đó chính là nghiêng mình kính cẩn trước một tấm lòng, một nhân cách của kẻ biết yêu cái đẹp, biết trọng cái tài. – Ông là người đứng đầu bộ máy đàn áp, là kẻ có thừa mánh khóe và luôn cẩn trọng trong công việc mẫn cán của một viên quan coi ngục. Ông đã “cắt lời” của thầy thơ lại khi dò xét cấp dưới của mình “Chuyện triều đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì khốn”, cáitính cẩn trọng của ông lại một lần nữa thể hiện khi ông vào ngục hỏi tâm nguyện cuối cùng của Huấn Cao “Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm”. Có phải chăng cái cảnh phải tra tấn con người hằng ngày và cuộc sống chốn nhà lao đã dạy cho viên quản ngục như thế? – Viên quản ngục là người hết lòng theo đuổi mục đích. Ông hiểu những người như Huấn Cao nên “Viên Quảng Ngục không lấy làm oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn”, mà ngược lại, Quản ngục mong ước ông Huấn dịu bớt tính nết để xin chữ “Quản Ngục mong mỏi một ngày gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết, thì y sẽ nhờ ông viết, ông viết cho… mấy chữ”. Quản ngục là người có tâm hồn cao thượng, là nghệ sĩ biết thưởng thức cái đẹp. Ngoài ra, ông còn là một con người có niềm tin, tin tưởng vào tương lai, cuộc sống, dù điều đó ông biết được nó rất mỏng manh. – Tác phẩm khép lại bằng một cuộc đổi ngôi kì lạ từ màn cho chữ quản ngục của Huấn Cao. Trước những lời di huấn của tử tù, “Ngục quan cảm độg, vái người tù một cái, chấp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh””. Không phải ông cố tình hạ thấp mình mà là một cách chân thành nhất, ông tự nhận thấy mình là một “kẻ mê muội”. Cái cúi đầu của quản ngục trước Huấn Cao là cái cúi đầu đầy ý nghĩa. Nó không làm cho ông thấp hèn đi mà nó tôn vinh một nhân cách, một tấm lòng, một sở thích, tất cả đều rất cao quý. – Là một nhà văn của Chủ nghĩa Lãng mạn, người suốt đời coi cái đẹp và nghệ thuật là tôn giáo của mình, tất yếu, Nguyễn Tuân sẽ say mê hướng vào những vẻ đẹp vừa mới lạ, độc đáo, vừa dữ dội, phi thường. Vậy nên, bút pháp tương phản, phóng đại được khai thác tối đa cùng với những thủ pháp nghệ thuật của hội họa, điêu khắc và điện ảnh được huy động triệt để đã làm nên những trang văn tuyệt bút. => Có thể nói, xây dựng nhân vật quản ngục – một kẻ chỉ biết thưởng thức cái đẹp, tôn thờ cái tài hoa, khí phách, Nguyễn Tuân đã tạo nên một đối tượng tương xứng với nhân vật chính Huấn Cao, từ đó gửi gắm những triết lí, thông điệp sâu xa “Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ chỉ biết tiếc, biệt trọng người có tài, hẳn không phải là một kẻ xấu hay vô tình”. Thậm chí, với những con người như quản ngục và thơ lại, họ càng đáng quý, đáng trân trọng hơn bởi họ như loài hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ bằng một vài nét phát họa chân dung, cử chỉ, đi vào tâm tư, suy nghĩ của nhân vật,ngòi bút Nguyễn Tuân đã lưu lại một gương mặt độc đáo trên những trang viết của Chữ người tử tù. 3. Cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm, ở đó, cái tài, khí phách anh hùng được tỏa sáng bởi sự soi chiếu của cái đẹp, cái thiên lương. Cảnh cho chữ trong tác phẩm là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. – Cảnh cho chữ diễn ra trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Thời gian đêm khuya, khi cả huyện tỉnh Sơn đã ngủ. Thông thường, không gian cho chữ là chốn thanh cao như thư phòng sạch sẽ, thoáng đãng, nên thơ nhưng ở đây, cảnh cho chữ lại diễn ra ở một căn buồng giam chật chội, ẩm ướt, hôi hám, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Chính thời gian và không gian đặc biệt này khẳng định cái “đẹp” được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn. Cái thiên lương cao cả lại tỏa sáng ở chính nơi bóng tối, cái ác ngự trị. – Cảnh cho chữ kì lạ, chưa từng có còn vì trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, con người hiện lên với tư thế và vị thế đối lập nhau + Người cho chữ Huấn Cao, một tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ”. Người tử tù ấy chỉ sớm tinh mơ ngày mai sẽ bị đem giải vào kinh chịu án tử hình. Thế nhưng, người nghệ sĩ tài hoa ấy Huấn Cao lại hiện lên với tư thế ung dung, hiên ngang, đầy uy nghi đối lập hoàn toàn với hình ảnh co ro, sợ sệt đến tội nghiệp của thầy thơ lại và viên quản ngục. + Quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ và thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực”. Khi nhận được chữ, quản ngục còn vái lạy cả người tù. Tư thế ấy góp phần tô đậm thêm vẻ đẹp của Huấn Cao. => Lúc này, trật tự kỉ cương của nhà tù bị đảo ngược hoàn toàn. Tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan. Còn ngục quan thì khúm núm, vái lạy tù nhân. Đây không phải là cảnh cho chữ thông thường mà là cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa người cho chữ và kẻ nhận chữ. – Kết thúc cảnh cho chữ là lời khuyên của Huấn Cao dành cho quản ngục. Lời khuyên ấy cũng được gửi gắm qua bức tranh chữ. Nó có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn nô lệ, chỉ đường cho kẻ lầm đường tìm về với cuộc sống lương thiện. => Để miêu tả cảnh cho chữ này, Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn từ vừa sắc sảo, sống động, vừa trang trọng, cổ kính, thủ pháp đối lập và bút pháp lãng mạn được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả. Đối lập giữa buồng giam tối tăm, dơ bẩn và ngọn đuốc sáng trưng, mảnh lụa bạch trắng tinh; giữa tư thế và vị thế của Huấn Cao và quản ngục; giữa cái xấu, ác và cái đẹp, thiên lương,… III. TỔNG KẾT Chữ người tử tù miêu tả tài năng và dũng khí, thiên lương cao cả kết tinh thành vẻ đẹp của Huấn Cao đồng thời làm rõ cái đẹp và cái thiện đã cảm hóa được cái xấu, cái ác và khẳng định tài và tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời.
Nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức tác phẩm Chữ người tử tù Ngữ văn lớp 11, bài học tác giả - tác phẩm Chữ người tử tù trình bày đầy đủ nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý phân tích, sơ đồ tư duy và bài văn phân tích tác đang xem Ý nghĩa nhan đề chữ người tử tùA. Nội dung tác phẩm Chữ người tử tùHuấn Cao là người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nên bị kết án tử hình. Trước khi chịu án chém, ông bị đưa đến giam tại một nhà tù. Khi trát gửi đến nhà tù, biết trong danh sách có ông Huấn Cao, người nổi tiếng viết chữ đẹp, viên quản ngục đã cho thầy thơ lại bảo người quét dọn phòng giam nơi Huấn Cao và những người tử tù sẽ ở. Trong những ngày Huấn Cao ở tù, viên quản ngục đã biệt đãi ông và những người đồng chí của ông. Sở nguyện của viên quản ngục là xin được chữ viết của Huấn Cao. Lúc đầu, Huấn Cao tỏ ý khinh miệt viên quản ngục, nhưng khi hiểu được tấm lòng viên quản ngục, ông đã quyết định cho chữ vào cái đêm trước khi ông bị xử chém. Trong đêm cho chữ, ông Huấn cao tay viết như rồng bay phượng múa trên tấm lụa bạch còn viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm núm bên cạnh. Sau khi cho chữ, ông Huấn Cao khuyên viên quản ngục về quê để giữ cho "thiên lương" trong sáng. Viên quản ngục nghe lời khuyên của ông Huấn Cao một cách kính cẩn kẻ mê muội này xin bái Đôi nét về tác phẩm Chữ người tử tù1. Tác giả- Nguyễn Tuân 1910 – 1987, quê ở làng Mọc, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Ông sinh gia trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã Năm 1929, khi đang học Thành Chung Nam Định ông bị đuổi Sau đó, ông bị đi tù vì sang biên giới Thái Lan không có giấy Sau khi ra tù, ông bắt đầu sự nghiệp văn Năm 1945, ông nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng Năm 1948 – 1957, ông là Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm Vang bóng một thời, Cảnh sắc và hương vị đất nước, Tùy bút Sông Đà, Ngọn đèn dầu lạc,...- Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc+ Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông" mỗi trang viết của ông đều muốn chứng tỏ tài hoa, uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả ở phương diện thẩm mỹ. Ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương xót lại gọi là vang bóng một thời.+ Sau Cách mạng tháng Tám, cái đẹp có ở cả quá khứ, hiện tại và tương lai; tài hoa có ở cá nhân đại chúng.+ Nguyễn Tuân theo chủ nghĩa xê dịch. Vì thế ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, và những phong cảnh tuyệt Tác phẩma. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác- Tác phẩm lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 trên tạp chí Tao đàn sau được tuyển in trong tập Vang bóng một Thể loại Truyện Phương thức biểu đạt Tự sự, miêu tả, biểu Ý nghĩa nhan đề- Khi in trên tập chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng dồn sức nặng vào hai chữ cuối cùng, gợi đến sự kết thúc, sự ám ảnh nặng nề về cái chết của nhân Đây không phải chủ đề, tư tưởng mà nhà văn muốn truyền tải Không phù hợp.- Khi in thành sách trong tập truyện Vang bóng một thời chính tác giả là người đổi tên thành Chữ người tử tù+ Chữ là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca.+ Người tử tù là đại diện của cái xấu, cái ác, cần loại bỏ khỏi xã Trong nhan đề đứa đựng sự mâu thuẫn, gợi ra tình huống éo le, ngang trái xuyên suốt tác phẩm, khơi gợi sự tò mò của người đọc.⇒ Thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc Bố cục 3 phần- Phần 1 Từ đầu đến …để mai ta dò ý tứ hắn ra sao rồi sẽ liệu Cuộc trò truyện giữa viên quản ngục và thầy thơ lại- Phần 2 Tiếp theo đến …thiếu một chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ Tấm lòng biệt đãi của viên quản Phần 3 Còn lại Cảnh cho Giá trị nội dung Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao – môt con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang bất khuất. Qua đó nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nướcg. Giá trị nghệ thuật Tình huống truyện độc đáo; nghệ thuật dựng cảnh, khắc họa tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình...C. Sơ đồ tư duy Chữ người tử tùD. Đọc hiểu văn bản Chữ người tử tù1. Tình huống truyện- Cuộc gặp gỡ giữa viên quản ngục và Huấn Cao – một tội phạm nguy hiểm của triều đình đang chờ ngày ra pháp trường.→ Đây là một tình huống hợp lý nhưng éo le và đầy kịch tính xét về không gian, thời gian, thân phận nhân vật.2. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao- Hoàn cảnh Người anh hùng thất thế. → Hoàn cảnh dễ làm con người sống thỏa hiệp, hèn Nhiều ý kiến cho rằng, nhân vật Huấn Cao được xây dựng từ nguyên mẫu là Cao Bá Quát nhất sinh đê thủ bái mai Hình ảnh một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định thể hiện tấm lòng ưu ái của Nguyễn Tuân dành cho nhân vật Huấn Cao.*Một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp- Tài năng của Huấn Cao được miêu tả một cách gián tiếp+ Qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?, …Cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…, nhiều người nhắc nhỏm đếm cái danh đó luôn…, thế ra y văn võ đều có tài cả. + Qua hành động và suy nghĩ của kẻ đối địch – quản ngục Viên quản ngục bất chấp mạo hiểm để đối đãi tử tế với Huấn Cao, chỉ mong đạt được sở nguyện là một ngày kia được treo riêng ở nhà mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời.⇒ Cách miêu tả gián tiếp làm cho người đọc có ấn tượng mạnh về tài năng của Huấn Cao. Tài năng đó giống như một huyền thoại được hết thảy mọi người kính phục. Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả tài năng, Nguyễn Tuân còn tuyệt đối hóa tài năng của Huấn Cao, biến một con người có tài năng hơn người thành một bậc “thần thơ thánh chữ”.*Một anh hùng khí phách hiên ngang- Một con người chọc trời khuấy nước Nguyễn Tuân khi xây dựng hình ảnh người tù phản nghịch đã ca ngợi tinh thần anh dũng, dám đứng dậy chống lại trật tự xã hội của Huấn Cao. Để tô đậm sự anh dũng của đó, Nguyễn Tuân đã mượn lời quản ngục …những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa huống chi là cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù…→ Khí phách con người thể hiện trong tầm vóc to lớn của công việc mà họ theo Một phẩm chất hiên ngang dù đã sa cơ+ Chi tiết cái gông nặng Ngay cả khi thất thế, Huấn Cao vẫn được coi là một kẻ nguy hiểm, cần chú ý đặc biệt. → Thông qua tả một chi tiết tưởng như không liên quan, Nguyễn Tuân đã khắc sâu trong lòng độc giả ấn tượng về sự anh hùng của Huấn Cao.+ Huấn Cao dù bị giam cầm vẫn ung dung tự tại, coi nhà tù như giang sơn, vẫn hành động như lúc còn vẫy vùng trong thiên hạ điềm nhiên rỗ gông, điềm nhiên nhận rượu thịt.+ Không sợ cường quyền, tỏ ra khinh bạc đến Một con người xem nhẹ cái chết Trước khi ra pháp trường, đối mặt với cái chết, người ta thường khó tránh khỏi cảm giác sợ hãi. Thế nhưng Huấn Cao vẫn có thể đường hoàng viết ra những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người.⇒ Khí phách của Huấn Cao được miêu tả vừa trực tiếp vừa gián tiếp kết hợp với nghệ thuật đối lập, bút pháp lý tưởng hóa, kết hợp kể và tả hành động, thái độ có tác dụng khắc sâu, tô đậm bản lĩnh ngạo nghễ, ngang tàng của nhân vật.+ Trực tiếp qua những hành động của Huấn Cao rỗ gông, thái độ trong tù và lời nói với người thơ lại, hành động tặng chữ.+ Gián tiếp qua suy nghĩ của viên quản ngục và người thơ lại, qua lời kể của nhà văn.+ Bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa.*Một con người có thiên lương trong sáng- Thiên lương thể hiện qua quan niệm về chữ và quyết định cho chữ+ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ câu nói này đã tóm gọn triết lý sống mà cả cả cuộc đời Huấn Cao luôn có ý thức gìn giữ bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất. → Chữ là thứ quý giá, là nghệ thuật cho nên chỉ trao tặng cho những ai xứng đáng với nó.+ Lý do tặng chữ Huấn Cao tặng chữ cho quản ngục vì cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và vì sợ phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. → Động cơ tặng chữ chữ rất trong sáng và cao quý. Hành động tặng chữ vừa là sự xúc động đạo đức – tri kỷ tặng chữ là trả nghĩa vừa là sự xúc động thẩm mỹ cầm bút tức là sáng tạo.- Thiên lương biểu hiện qua lời khuyên ở đây khó mà giữ thiên lương cho lành vững…→ Huấn Cao không chỉ giữ thiên lương cho mình mà còn dùng chính thiên lương ấy tỏa sáng, hướng thiện, giúp người khác được khơi gợi thiên lương, cũng có được thiên lương. Đó là biểu hiện của bút pháp lãng mạn, lý tưởng kết Huấn Cao là nhân vật lý tưởng được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn lý tưởng hóa thể hiện tư tưởng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân đồng thời kết tinh quan điểm thẩm mỹ của nhà văn về nghệ thuật và con người- Nghệ thuật chân chính có một sức hấp dẫn kì lạ và có sự tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến con Cái đẹp chân chính phải là sự hội ngộ của cái Tài và cái Vẻ đẹp của nhân vật quản ngục- Hoàn cảnh sống Là quản ngục, sống giữa gông xiền và tội ác. → Dễ sa vào ác đạo, bùn nhơ Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô Là một con người say mê cái tài và biết quý trọng cái Đẹp+ Suy nghĩ Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình. → Lòng trọng người tài, trọng cái đẹp là tiêu chí để đánh giá nhân cách con người. Đó cũng là quan điểm sống của quản ngục.+ Sở nguyện Một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết, mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất.→ Sở nguyện cao quý.+ Hành động Trong thời gian Huấn Cao bị giam, quản ngục tỏ ra hết sức cung kính, lòng kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi.→ Con người biết kính sợ trước cái đẹp, biết khâm phục trước cái tài, biết vị nể trước khí Một con người dũng cảm, biết hướng thiện, dám sống theo lẽ phải, theo tiếng gọi của lương tri+ Luôn day dứt khi chọn nhầm nghề, thường tự nhủ Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi.+ Khi nghe tin tiếp nhận Huấn Cao, quản ngục rất lo lắng Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương. → Mâu thuẫn giữa nghĩa vụ với triều đình và tiếng gọi của lương tâm. Quản ngục bị đặt trước tình thế phải chọn lựa.+ Trời gần sáng Những đường nhăn… bây giờ đã biết mất hẳn, ta muốn biệt đãi Huấn Cao… nhưng chỉ sợ… để mai ta dò ý tứ hắn xem sao rồi sẽ liệu.→ Quyết định hành động theo tiếng gọi của lương tri nhưng còn thoáng băn khoăn.+ Thời gian tiếp đón Huấn Cao Nỗi băn khoăn biến mất. Quản ngục không giấu diếm tấm thịnh tình của mình.+ Rất xúc động trước lời khuyên của Huấn Cao Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chấp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.⇒ Quản ngục đã dám bước qua giới hạn của chức phận để làm theo lẽ sống cao quý của đời mình. Để thực hiện được lẽ sống đó, ngục quan phải chấp nhận mạo hiểm kể cả mạng sống của bản thân. Nhân vật đầy mâu thuẫn; là tù nhân trong chính môi trường của mình. → Quan điểm của Nguyễn Tuân về nghệ thuật và con người+ Cái đẹp chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người.+ Những con người biết quý trọng cái tài, yêu cái Đẹp không bao giờ là kẻ xấu, kẻ ác.+ Hoàn cảnh chỉ là công cụ thử thách và thước đo phẩm giá cho mỗi con kết Quản ngục là một con người có tâm hồn nghệ sĩ; biết say mê, quý trọng cái Tài, cái Đẹp đồng thời cũng là một con người có thiên lương trong sáng, cao đẹp. Nhân vật quản ngục góp phần tô đậm và làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao và quan niệm thẩm mỹ của nhà văn Nguyễn Cảnh cho chữ- Không gian Cho chữ là một hành động văn hóa, do đó thường diễn ra ở những địa điểm văn hóa. Nhưng ở đây, địa điểm đó lại là ở nhà giam, trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân Thời gian+ Bình diện vật lý Việc cho chữ thường diễn ra lúc thanh thiên bạch nhật. Nhưng ở đây, thời gian cho chữ lại là đêm khuya vắng vẻ đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh…+ Bình diện tâm lý Người ta thường tặng chữ cho nhau khi cảm thấy thoải mái, vui vẻ. Nhưng ở đây, việc cho chữ lại diễn ra vài ngày trước khi Huấn Cao ra pháp trường. Do đó, đây không chỉ đơn giản là một hành động văn hóa nữa, mà nó còn là thời khắc Huấn Cao để lại di huấn cho Vị thế nhân vật bị đảo lộn+ Đảo lộn về quyền uy Uy quyền thuộc về kẻ đã bị tước hết mọi quyền, kể cả quyền sống.+ Đảo lộn về thái độ Người không có lý do để khúm núm thì lại khúm núm, người có vô số lý do để sợ thì lại bình thản.+ Đảo lộn về chức phận Quản ngục là người có vai trò giáo dục tù nhân thì lại bị tù nhân là Huấn Cao dạy về đạo Quan niệm của Nguyễn Tuân về nghệ thuật và con người+ Cái Đẹp không bao giờ lẻ loi, đơn độc dù trong bất kì hoàn cảnh nào;+ Cái Đẹp có thể nảy sinh từ cái xấu nhưng không thể tồn tại cùng cái xấu;+ Nghệ thuật chân chính có khả năng “vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn” Nam Cao thậm chí nhân đạo hóa con người;+ Con người muốn thực sự xứng đáng với cái Đẹp thì phải đoạn tuyệt với cái xấu, cái ác.⇒ Nguyễn Tuân gọi cảnh cho chữ là một cảnh xưa nay chưa từng Đặc sắc nghệ thuật- Bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa Miêu tả con người trong sự toàn thiện, toàn mỹ+ Huấn Cao Hiện lên sừng sững như một bức tượng đài. Con người này tập trung ở mức đỉnh cao cả ba phẩm chất Nhân - Trí – Dũng.+ Quản ngục Sự ngưỡng mộ đối với cái đẹp cũng đạt đến mức kì Thủ pháp đối lập+ Trong xây dựng nhân vậtĐối lập giữa Huấn Cao và quản lập trong bản thân nhân vật quản thêm Bài Thu Hoạch Nâng Hạng Giáo Viên Tiểu Học Hạng 2 Thư Viện Giáo Án+ Trong miêu tả cảnh vật cảnh cho chữĐối lập giữa ánh sáng và bóng lập giữa cái Thiện, cái Đẹp và cái xấu xa, nhơ Ngôn ngữ cổ kính, giàu tính tạo hình
Văn bản Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân cho ta thấy cái đẹp của cha ông xưa nay chỉ còn là vang bóng, truyện được viết ra như một phần để đối với chế độ thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ, một xã hội "Tây - Tàu nhố nhăng" đầy rẫy áp bức, bất công, đê hèn độc ác và man trá. Để giúp bạn hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn về các dạng đề đọc hiểu liên quan đến văn bản, cùng Đọc Tài Liệu tham khảo soạn bài Chữ người tử tù cùng một số đề đọc hiểu dưới đây và xem gợi ý đáp án của từng đề bạn nhé Đề đọc hiểu Chữ người tử tù Đề số 1 Đọc văn bản sau và cho biết “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản? Câu 2. Những biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong đoạn văn bản? Phân tích hiệu quả nghệ thuật của thủ pháp nghệ thuật đó. Câu 3. Đoạn văn bản trên đã thực hiện những nét đặc sắc nào của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân? Đáp án đề đọc hiểu Chữ người tử tù số 1 Câu 1 Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là tự sự, biểu cảm. Câu 2 Những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn bản là Biện pháp đối lập tương phản hoàn cảnh đề lao, nghề nghiệp quản ngục >< tính cách, tấm lòng của viên quan coi ngục. Biện pháp so sánh “…là một thanh âm trong trẻo” - Hiệu quả nghệ thuật của thủ pháp nghệ thuật đó là khắc họa, ngợi ca nhân cách cao quý của quản ngục. Đây không phải là một cai ngục bình thường, chỉ là do hoàn cảnh mà bị đẩy vào chỗ cặn bã, thực chất ở con người ấy vẫn ngời lên những phẩm chất tốt đẹp. Câu 3 Những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân được thể hiện trong đoạn văn trên là Cái nhìn đầy lãng mạn nhưng cũng là cái nhìn mang tính thẩm mĩ cao cả của Nguyễn Tuân đối với con người. Xây dựng nhân vật bằng bút pháp lãng mạn, độc đáo. Ngôn ngữ trang trọng, mực thước. Đề số 2 Đọc đoạn trích trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới. Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Trích “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân Câu 1 Những câu văn trên miêu tả suy nghĩ của nhân vật nào? Câu 2 Nhân vật đó nói về điều gì? Câu 3 Văn bản trên đã sử dụng thành công biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của phép tu từ đó? Câu 4 Tìm các từ láy trong văn bản và đặt câu với mỗi từ láy đó Đáp án đề đọc hiểu Chữ người tử tù số 2 Câu 1 Những câu văn trên miêu tả suy nghĩ của nhân vật Huấn Cao. Câu 2 Điều mà Huấn Cao muốn nói đến đó là đánh giá về vẻ đẹp phẩm chất, tính cách và tâm hồn của nhân vật quản ngục. Câu 3 Văn bản trên đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh tính cách dịu dàng, lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục được ví như một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. - Tác dụng của phép tu từ đó là Hình ảnh so sánh này có ý nghĩa gợi dậy ở người đọc sự hình dung khái quát nhất về hoàn cảnh và phẩm chất của nhân vật quản ngục. Đây là hình ảnh súc tích, tạo ra sự đối lập sắc nét giữa trong và đục, thuần khiết và ô trọc, cao quý và thấp hèn, giữa cá thể nhỏ bé, mong manh với thế giới hỗn tạp, xô bồ. Nó là một hình ảnh so sánh hoa mĩ, đắt giá, gây ấn tượng mạnh, thể hiện sự khái quát nghệ thuật sắc sảo, tinh tế, có ý nghĩa làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn nhân vật. Câu 4 Các từ láy được sử dụng dịu dàng ,trong trẻo - Đặt câu Học sinh được tùy ý đặt câu theo ý của mình nhưng phải đúng về ngữ pháp. Xem thêm Sơ đồ tư duy Chữ người tử tù Đề số 3 Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới Sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn đến cửa ngục thất sáu tên tù mà công văn chiều hôm qua đã báo trước cho ngục quan biết rõ tên tuổi, làng xóm và tội hình. Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái thang dài ấy đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn, nếu đem bắc lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy, tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu người tử tù. Gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ, mồ hôi tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước quang dầu bóng loáng. Những đoạn gông đã bóng thì loáng như có người đánh lá chuối khô. Những đoạn không bóng thì lại xỉn lại những chất ghét đen sánh. Trong khi chờ đợi cửa ngục mở rộng, Huấn Cao, đứng đầu gông, quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chí - Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gông đi. Sáu người đều quì cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông đầu cúi cả về phía trước. Một tên lính áp giải đùa một câu - Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ. Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen. Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, Câu 1. Đoạn trích trên được trích từ tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. Giới thiệu vài nét về xuất xứ tác phẩm đó. Câu 2. Nêu chủ đề của đoạn trích. Câu 3. Phân tích ngữ cảnh của câu văn in đậm trong đoạn trích. Câu 4. Phân tích giá trị nghệ thuật của chi tiết dỗ gông. Câu 5. Viết một đoạn văn ngắn khoảng 8 – 10 câu, nêu cảm nhận của anh/chị về khí phách của nhân vật Huấn Cao được thể hiện trong đoạn trích. Đáp án đề đọc hiểu Chữ người tử tù số 3 Câu 1 Đoạn trích được trích từ tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. - Xuất xứ tác phẩm Truyện ngắn lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Vang bóng một thời 1940, là một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mỹ Vũ Ngọc Phan. Câu 2 Chủ đề của đoạn trích là ngợi ca khí phách hiên ngang của Huấn Cao. Câu 3 Ngữ cảnh của câu Phải dỗ gông đi là - Nhân vật giao tiếp Câu nói trên là của nhân vật Huấn Cao, nói với các bạn tù đang cùng bị gông chung với ông. Huấn Cao và năm người bạn kia đều là tử tù, phạm tội phản nghịch, chống lại triều đình. - Bối cảnh ngoài ngôn ngữ Bối cảnh giao tiếp rộng xã hội Việt Nam thời phong kiến, triều đình phong kiến đang trên đà suy thoái, những cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nổ ra ở khắp nơi. Bối cảnh giao tiếp hẹp Câu nói trên có bối cảnh hẹp là phòng giam trong trại giam của tỉnh Sơn, vào một buổi sớm, sau khi Huấn Cao cùng năm người đồng chí khác đƣợc áp giải đến trại giam. Hiện thực đƣợc nói tới Câu nói của Huấn Cao là lời đề nghị năm người còn lại cùng mình dỗ gông cho rệp trên gông rơi bớt xuống. - Văn cảnh Sở dĩ người đọc có thể hiểu lời đề nghị dỗ gông của Huấn Cao bởi vì sau câu nói của Huấn Cao, tác giả đã miêu tả rất kĩ về chiếc gông sau khi được dỗ Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen. Câu 4 Sáu người tử tù phải cùng mang trên vai một chiếc gông bằng gỗ lim, dài tám thƣớc, nặng độ bảy, tám tạ. Trên chiếc gông có vô vàn những con rệp nhỏ li ti, chúng cắn đỏ cả cổ các tử tù. Không làm thế nào để bớt bị rệp cắn cho được, Huấn Cao đã bảo các bạn đồng chí của mình dỗ gông xuống thềm đá trong nhà giam để rệp rụng bớt xuống. Chứng kiến cảnh tượng đó, tên lính áp giải có nói đùa “Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.”. Với Huấn Cao, câu nói của tên lính hẳn là lời của kẻ tiểu nhân đang giở trò thị oai nên mặc dù bị tên lính áp giải dọa nạt, ông Huấn vẫn lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Chiếc gông bảy, tám tạ bất ngờ giật mạnh khiến những người đồng chí của Huấn Cao phải nhăn mặt vì đau. Chi tiết dỗ gông thể hiện thái độ khinh bỉ bọn tiểu nhân đồng thời tô đậm khí tiết anh hùng, không chịu khuất phục ngục tù, thậm chí thách đố cả ngục tù ở con người đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ. - Trên đây là một số đề đọc hiểu Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân mà Đọc tài liệu đã sưu tầm được, mong rằng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình ôn tập tại nhà!
ý nghĩa nhan đề chữ người tử tù